Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

XIN CẢM TẠ XIN THA THỨ và XIN CẦU NGUYỆN

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục

XIN CẢM TẠ 
XIN THA THỨ và XIN CẦU NGUYỆN

1.
Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi.
Hồng ân lớn lao, vì qua lễ thụ phong giám mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt.
Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu.
Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện.
2.
Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp.
3.
Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi.
Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể.
4.
Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi.
Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi.
Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi.
5.
Tôi đã lo nhận ra ý Chúa.
Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy.
6.
Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới.
Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa
7.
Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó.
8.
Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ.
Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót.
9.
Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ.
Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng.
10.
Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi.
11.
Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng.
12.
Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân.
Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ.
Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 30.4.2015.

NHỜ MẸ DÂNG HOA LÊN CHÚA

NHỜ MẸ  
DÂNG HOA LÊN CHÚA

1.
Trong 12 tháng, thì tháng Năm được Hội Thánh Việt Nam gọi là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Hoa dâng kính Đức Mẹ thường được hiểu là hoa tự nhiên trồng ở vườn, mua từ chợ. Bên canh hoa tự nhiên mang nhiều màu sắc và hương thơm, chúng ta còn dâng lên Mẹ những hoa thiêng liêng trồng ở tấm lòng riêng tư của mỗi người chúng ta.
Riêng đối với tôi, những hoa quan trọng nhất tôi dâng lên Mẹ, đều là những hoa thiêng liêng. Nói cho đúng, những hoa thiêng liêng này đều do chính Đức Mẹ đã giúp tôi trồng trong trái tim tôi, để rồi tôi lại hái dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa.
2.
Hôm nay, tôi ôm vào lòng một bông hoa tôi cho là rất quý, mà chính Mẹ giúp tôi trồng trong sâu thẳm hồn tôi. Mẹ bảo tôi hãy dâng hoa đó lên Chúa nhân lành. Chúa đã thương nhận. Người dạy tôi hãy kể ra cho cộng đoàn biết chút ít về bông hoa đó, vì nó là công trình của Mẹ. Tên bông hoa đó là niềm tin vào tình yêu đầy xót thương của Thiên Chúa.
3. Tôi xin vắn tắt.
Ngay từ rất nhỏ, tôi đã được cha mẹ dâng tôi cho Đức Mẹ. Đọc kinh Mân Côi đã sớm trở thành thói quen tôi dùng để gặp gỡ Đức Mẹ. Mỗi ngày nhiều lần, sự gặp gỡ Đức Mẹ bằng kinh Mân Côi đã gieo vào lòng tôi những tâm tình về đức tin. Tôi tin Chúa theo kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh. Dần dần, tôi nhận ra Chúa là tình yêu. Rồi, đến một lúc, tôi nhận ra tình yêu Chúa là tình yêu đầy lòng thương xót.
Phải nói là, Đức Mẹ cho tôi nhận ra trước, rồi sau đó là tin tất cả những gì về tình yêu Chúa giàu lòng xót thương.
4.
Tôi nhận ra Chúa thương yêu tôi, qua những gì đã xảy ra trong đời tôi. Đời tôi là một hành trình. Chuyến đi đời tôi gặp nhiều trắc trở. Có những trường hợp tưởng là chắc chắn tôi sẽ rơi xuống hố diệt vong. Nhưng đến phút chót, tôi đã được Chúa cứu. Tôi nhận ra tôi được cứu hoàn toàn nhờ Chúa và do Chúa. Do vậy, tôi nhận ra Chúa là tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy Chúa dành cho tôi một cách nhưng không, một cách bất ngờ, một cách quá sức tưởng tượng. Tôi chỉ biết gọi Chúa là tình yêu, đúng như thánh Gioan tông đồ  đã viết: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16).
5.
Chúa yêu tôi, trước khi tôi yêu Chúa. Không những thế, Chúa còn yêu tôi, khi tôi còn trong tội lỗi, hư hỏng, đê hèn, đáng phải trừng phạt. Qua đó, tôi nhận ra Chúa giàu lòng thương xót. Nhận ra qua những bằng chứng sống động. Cảm thấy bằng những xúc cảm không thể nào quên. Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, là điều bản thân tôi đã nhận ra, đã cảm nghiệm, là điều đã đóng ấn sâu trên đời tôi. Tôi đã nhận ra và đã tin. Như thánh Gioan đã viết:
“Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người, mà chúng ta được sống.
“Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yemé Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,9-10).
“Chúng ta đã nhận biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và chúng ta đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16).
6.
Tôi đã nhận ra và đã tin Thiên Chúa là tình yêu thương xót. Sự nhận ra và sự tin như thế đã nâng đỡ tôi rất nhiều trong chức vụ linh mục và Giám mục. Nhất là khi mọi lãnh nhận các chức vụ trong Hội Thánh đều hoàn toàn do được sai đi, chứ không do tự mình tôi chọn lấy cho mình.
Được Chúa sai đi, và nhận lãnh sự sai đi chỉ vì vâng phục ý Chúa, nhất là trong những tình hình phức tạp khó khăn, đó là tâm trạng đòi nhiều phó thác. Sự phó thác đó nơi tôi đã được đỡ nâng bằng sự nhận ra và tin mình được Chúa yêu thương đầy thương xót.
7.
Khi được nhận ra và được tin vào tình yêu đầy xót thương của Chúa, tôi tự nhiên ham thích cầu nguyện. Tôi theo gương Mẹ.
Có thể nói: Sự ham thích cầu nguyện nơi tôi là do ơn Chúa. Chính Chúa làm cho linh hồn tôi ngoan ngoãn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để cầu nguyện với Chúa một cách khiêm nhường và cậy trông.
Cầu nguyện nơi tôi là sự gặp gỡ với Chúa, là sự trao đổi giữa tình yêu Chúa và sự hèn hạ khốn khổ của tôi.
Cầu nguyện nơi tôi không hệ tại ở sự suy nghĩ nhiều, mà ở tại sự yêu mến nhiều.
Cầu nguyện nơi tôi là một việc đơn sơ, hồn nhiên. Bắt đầu cầu nguyện, tôi hay nhìn Chúa Giêsu và học ở Người điều mà chính Người đã phán: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Rồi tôi nhận được sự bình an, như Người đã hứa: “Tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
8.
Kh cầu nguyện, tôi xác tín mình rất hèn mọn, khó nghèo, tội lỗi, xấu xa, rất cần đến lòng thương xót Chúa. Tôi tin Chúa xót thương tôi, chính vì tôi là như thế. Và vì tôi chính là kẻ khó nghèo, tội lỗi, nên tôi tự nhiên không dám mơ ước đến những sự lớn lao, như hãm mình khắc khổ lớn, trở thành ánh sáng lớn, làm những việc lành lớn.
9.
Trở thành bé nhỏ, đó là một cách tôi thuộc về Chúa Giêsu. Đấng mà tôi tin luôn yêu tôi với tình xót thương vô bờ.
Trở thành bé nhỏ như thế luôn đi kèm với sự cậy trông. Chính ở đây tôi hiểu lời thphl đã nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
10.
Những gì tôi vừa vắn tắt chia sẻ trên đây là rất chân thành. Đó là bông hoa thiêng tôi dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ, dâng lên Chúa.
Tôi tin rằng: Tại Việt Nam hôm nay đang có nhiều bông hoa thiêng liêng dâng lên Mẹ, và nhờ Mẹ dâng lên Chúa. Những bông hoa thiêng liêng đó có thể khác nhau. Nhưng tất cả đều muốn làm chứng về Thiên Chúa.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, người thời nay cảm thấy mình được thu hút bởi dung mạo Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót, hơn là bởi bất cứ dung mạo nào. Do vậy, mà việc làm chứng cho Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót rất cần được thực hiện do chính ơn Chúa, một cách khiêm nhường vâng phục, để có sức dấn thân phục vụ theo đúng ý Chúa.

Long Xuyên, ngày 3.5.2015.